Bấm vào đây để xem

Thứ Ba, 5 tháng 6, 2012

Cây óc chó bổ thận, đen tóc

Cây hồ đào ta gọi là cây óc chó, Đông y gọi hồ đào nhục, hạch đào. Tên khoa học: Juglans regia linn. Là loại cây sống lâu năm, có thể cao tới 20m, lá kép lông chim lẻ, thườngcó từ 7 - 9 lá chét, mép nguyên, không cuống, hình trứng thuôn, khi vò ra có mùi hăng đặc biệt. Hoa đơn tính cùng gốc họp thành đuôi sóc. Quả hạch, bọc trong một lớp vỏ nạc, khi chín không nứt, hạch rất cứng màu vàng, trong có chứa hạt rất nhiều dầu. Cây này nguồn gốc ở Địa Trung Hải. Ở Việt Nam, cây được trồng ở một số vùng biên giới như Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng.

Bộ phận dùng: nhân, vỏ ngoài quả, lá cành, hạt. Nhân hồ đào vị ngọt, tính ấm, bổ thận, cố tinh, nhuận phế, định suyễn, nhuận tràng, trị thận hư ho suyễn, eo lưng đau, chân yếu, dương nuy, di tinh, đại tiện táo, bí tiểu luôn.
Vỏ cách vị đắng, tính bình, bổ thận, sáp tinh, trị thận hư di tinh, hoạt tinh, đái dầm.
Vỏ ngoài quả và cành lá vị đắng, tính bình, trị sưng hết ngứa sần, ngứa da trâu (ngưu bì tiên), ghẻ ngứa.
Nếu dùng lá thì hái suốt mùa hè, tốt nhất vào tháng 6 - 7, chọn lá xanh phơi khô có màu lục, mùi thơm và đắng chát.
Dùng nhân thì thu hái vào tháng 9 - 10, hái quả chín về bọc lấy vỏ ngoài phơi khô dùng.
Hạch gồm nhân và vỏ cứng, phơi khô gọi hồ đào, hạch đào, lấy quả hạch, đập lấy nhân phơi khô gọi hồ đào nhân và phần vách phơi khô gọi phân tâm mộc.
Qua các thời đại các y gia đã dùng hồ đào như sau: Trong Dược phẩm vựng yếu, Lãn Ông nói về hồ đào rằng: có vị ngọt khí nóng không độc, ăn luôn thì mạnh khỏe, tóc đen dài, kiêm bổ hạ nguyên (can, thận), làm thông kinh, nhuận huyết mạch, dưỡng gân cốt, thu liễm phế khí ngừng ho, hết bại liệt, mạnh âm trị chân eo lưng đau do hư, khiến cơ phu nhuận trạch, trên thì lợi khí tam tiêu, dưới thì bổ ích mệnh môn hỏa.

Cách phối hợp để dùng
Trị loa lịch: Hạch hồ đào sao cháy hợp với nhựa thông hòa giấm thay chưng cách thủy thành cao dán.
Trị bị đánh đập tổn thương: hồ đào tán nhỏ, uống với rượu ấm.
Chữa sỏi tiết niệu: Bột hồ đào hòa cùng gạo nấu cháo ăn.
Trị khí suyễn của phụ nữ và trẻ em: Hồ đào để cả vỏ cùng nhân sâm sắc uống.
Chữa mũi đỏ: Hồ đào và hột quýt bằng nhau tán nhỏ uống với rượu. Đời Tống (960 - 1280) y gia Tô Tụng dùng hồ đào với phá cố chỉ để chữa đái ra sỏi.
Đời Minh (1368 - 1464) nhà dược học Lý Thời Trân dùng để bổ khí dưỡng huyết, nhuận táo hóa đờm, ích mệnh môn, lợi tam tiêu, ấm phổi nhuận tràng, trị ho suyễn do lạnh, chân eo lưng đau nặng, đau sán khí vùng tâm phúc, chữa trĩ, đi ngoài ra máu, làm tan độc, sưng đau, thúc đậu chóng mọc, chế độc tố của đồng. Liều dùng 10 - 12g.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cười lên một tí - Thỏa chí tang bồng